Tên khoa học: Hydrophis torquatus diadema Günther, 1864
Common name: West Coast Black-headed sea snake
Synonyms (Tên đồng vật):
Hydrophis diadema Günther, 1864;
Hydrophis torquatus diadema, Smith, 1926.
Hiện trạng bảo tồn:
CITES (2013): Không.
Nghị định số 160/2013/ND-CP: Không.
Danh lục đỏ IUCN (2015.2): Thiếu dữ liệu.
Sách đỏ Việt Nam (2007): Không.
Đặc điểm nhận dạng: Hàng vảy quanh cổ 29–37; hàng vảy quanh thân 35–49; vảy bụng 230–340; răng của xương hàm trên phía sau răng nanh độc 8–10.
Màu sắc: đầu đen có một khoanh hơi vàng băng ngang mõm và dọc hai bên. Cơ thể có màu xám hoặc hơi trắng ở phần lưng, vàng hoặc hơi trắng ở phần bụng, có các khoanh trắng, chúng thường không được đầy đủ ở phần bụng. Các khoanh này phai mờ hoặc biến mất theo tuổi, để lại nhiều hoặc ít màu xám đồng bộ.
Phân bố chung: Eo biển Malacca, Borneo, vịnh Thái Lan, biển hồ (Tonle Sap) - Campu-chia, vùng biển Trung Quốc (Smith, 1926; Ineich, 1996; David & Ineich, 1999).
Phân bố ở Việt Nam: Tìm thấy ở cảng cá Cồn Chà tỉnh Bình Thuận.
Môi trường sống: Loài này sống ở vùng nước cạn ven bờ và cửa sông và vùng thượng nguồn.
Thức ăn: Ít được biết.
Sinh sản: Trứng thai, mỗi lứa trung bình 6 con (Lemen & Voris, 1981).
Độc tố học: Độc tố thần kinh.
Giá trị sử dụng: Thực phẩm, dược phẩm.
Tình trạng: Ít gặp ở vùng biển Việt Nam.
Ghi chú: Sẽ nguy cấp (VU). Trong 15 năm qua chỉ thu được một mẫu ở cảng cá Cồn Chà tỉnh Bình Thuận, nó được khẳng định ghi nhận lần đầu ở Việt Nam. Có ba loài phụ được xác định trong loài này (Smith, 1926), một trong chúng được tìm thấy gần với vùng biển Việt Nam là H. torquatus diadema (Smith, 1926; Ineich, 1996). Mẫu đang lưu giữ tại Viện Hải dương học, thành phố Nha Trang, trong năm 2000.
Nguồn thông tin và hình ảnh: Cao Van Nguyen, Bui Hong Long, Kenneth Broad, Arne Redsted Rasmussen. Sea Snakes in Vietnam