Tên Việt Nam: Tôm hùm đỏ
Tên tiếng Anh: Longlegged spiny lobster
Synonym:
Palinurus longipes A.M. Edward, 1868
Palinurus femoristriga Voin Martens, 1872
Senex femoristriga Ortmann, 1891
Panulirus bispinosus Borradaile, 1899
Panulirus japonicus longipes de Man, 1916
Hình thái:
Màu sắc và kích thước: Thân màu đỏ nâu hay đỏ tím. Trên vỏ đầu ngực có những chấm hay đốm màu đỏ cam, phần sau rãnh cổ có những vệt màu trắng xếp theo dạng vòng cung, đỉnh các gai màu trắng. Trên vỏ lưng các đốt bụng có nhiều chấm tròn nhỏ màu trắng và ở vỏ bên mỗi đốt bụng có 1 chấm tròn lớn màu trắng. Trên các chân bò có những đốm dị hình và sọc dọc màu trắng.
Chiều dài: Lớn nhất 300 mm, trung bình 200-250 mm.
Râu: Phiến gốc râu I có 2 gai lớn ở phía trước và 2 hàng gai nhỏ ở phía sau.
Vỏ đầu ngực: Có nhiều gai lớn, gai nhỏ rất nhọn. Hai gai trên mắt phát triển, dẹp theo bề ngang, uốn cong về phía trước. Trước rãnh cổ có 3 hàng gai: hàng thứ nhất có 2 gai, hàng thứ hai có 6 gai, hàng thứ ba có 4 gai. Các gai ở hàng thứ nhất lớn hơn 2 lần so với các gai hàng sau. Rãnh sau vỏ đầu ngực rộng bằng gờ sau vỏ đầu ngực, bờ rộng của rãnh và gờ không thu hẹp về phía hai bên.
Phiến trên miệng: Không có rãnh. Phía trước phiến có 3 gai lớn, gai giữa lớn hơn gai hai bên.
Phần bụng: Vỏ lưng đốt bụng II-VI có 1 rãnh ngang liên tục, rõ và gờ trước của các rãnh nguyên không chia thùy. Cuối bên của các rãnh ngang của đốt bụng II-IV uốn cong về phía trước và nối với rãnh bên của đốt bụng đó. Vỏ bên các đốt bụng II-V tận cùng bằng gai nhọn lớn uốn cong về phía sau, cạnh sau vỏ bên có 1 gai nhỏ.
Các chi: Râu của nhánh ngoài chân hàm I có 12-14 đốt, vượt qúa nửa đốt đùi chân hàm III. Râu của nhánh ngoài chân hàm II-III có 12 đốt hoặc ít hơn, đạt đến giữa đốt đùi chân hàm III. Các đôi chân bò của con đực trưởng thành thường to và rất dài, đôi chân bò II có thể dài gấp 1,5 lần chân bò III. Trái lại ở con cái và con còn non, chân bò III lại dài hơn chân bò II.
Sinh học và sinh thái: Thường sống quanh các đảo, độ sâu 1-20 m trong các rạn san hô và vùng phụ cận có độ trong cao và sóng đập. Thường sống riêng lẻ và hoạt động mạnh vào ban đêm.
Phân bố:
Thế giới: Từ vùng biển Đông Phi đến Nhật Bản, quần đảo Polinesia.
Việt Nam: Thường gặp quanh các đảo ven biển miền Trung.
Tài liệu tham khảo thông tin và hình ảnh: Trung tâm An toàn và Môi trường Dầu khí. Atlas Giáp xác vùng biển Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001