Mặt bụng và mặt lưng của loài ốc Sứ vân hổ - Cypreae tigris
Hình ảnh loài ốc sứ vân vàng Monetaria annulu
Hình ảnh loài ốc Sứ vân hổ - Cypreae tigris đang bò ở dưới đáy biển
Tên của họ ốc này bắt nguồn từ đặc điểm vỏ của các loài trong họ này phần lớn luôn láng bóng một cách tự nhiên như sứ. Nguyên nhân sự láng bóng này được lí giải có thể là vì phần lớn các loài này khi hoạt động các tấm áo (phần thịt) ở bên trong vỏ sẽ thò ra và bao phủ toàn bộ vỏ ốc, làm cho vỏ ốc láng bóng không bị bám rong rêu hay tảo vôi. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có một số tên gọi khác như ốc heo, ốc lồn (vì mặt bụng của họ ốc này có đặc điểm hình thon dài và ở giữa có rãnh sâu kéo dài, đồng thời khi bắt lên loài này thường chảy khá nhiều dịch nhờn nhớt).
-Lịch sử nghiên cứu: Họ này đã được mô tả từ rất sớm lần đầu tiên vào năm 1815, và đến nay đã ghi nhận trên thế giới có khoảng 217 loài (theo www.worldwideconchology.com) và con số này vẫn đang còn tăng lên. Trước đây họ chỉ có một giống là Cypraea, tuy nhiên gần đây các nhà phân loại trong nhóm này đã đồng ý tách giống này thành 34 giống khác nhau (worldwideconchology.com). Đây là một trong những họ ốc biển được quan tâm nghiên cứu rất nhiều trên thế giới. Có rất nhiều cuốn sách, bài báo viết về họ này.
Ở Việt Nam, họ này đã thống kê được 73 loài (Hylleberg J. & Kilburn R., 2003). Hầu như chưa có các nghiên cứu riêng về họ ốc này ở nước ta mà chủ yếu họ ốc này được nói tới trong các kết quả nghiên cứu chung về khu hệ thân mềm của một vùng nào đó. Và đây cũng là điều tương tự đối với phần lớn các họ ốc biển ở nước ta, đó là chưa có sự nghiên cứu về phân loại chuyên sâu về một họ nào đó.
- Đặc điểm hình thái, sinh học và sinh thái:
Vỏ ốc tương đối cứng, hình trứng hoặc hình thuôn dài với kích thước từ nhỏ đến lớn, loài nhỏ nhất từng được biết đến là Naria irrorata (Grey, 1828) có chiều dài chỉ 7mm, trong khi loài lớn nhất với kích thước vỏ lên đến 190,5mm (loài Macrocypraea cervus) (worldwideconchology.com). Phần chóp ngắn và thường ẩn dưới lớp vỏ bao bọc bên ngoài ở con trưởng thành. Bề mặt vỏ nhẵn bóng và thường có hoa văn sống động.
Mặt bụng (ventral view) có một rãnh dọc ở giữa với khẩu độ hẹp và kéo dài gần như toàn bộ chiều dài của vỏ, có rãnh ngắn ở cả hai đầu. Có hai môi trong và môi ngoài, trên cả hai môi đều có gờ hoặc răng ngang nhô cao, môi ngoài dày lên và trề ra; môi trong với một rãnh dọc nông nằm về phía trước.
Không có nắp vỏ (Operculum). Lớp áo rất lớn, có 2 thùy có thể bao phủ toàn bộ vỏ ốc. Các thùy lớp áo thường có màu sáng và có nhiều gai cảm giác nhỏ hình cành cây hoặc hình ngón tay. Không có màng phổi.
Là nhóm động vật phân tính, thụ tinh bên trong. Trứng đẻ ra trong các nang sừng gắn với giá thể bằng một cuống ngắn và tập hợp lại thành cụm. Sau khi đẻ, con cái dùng chân che trứng cho đến khi trứng nở thành ấu trùng bơi tự do hoặc khi con non còn nhỏ. Vỏ con non có điểm khác biệt so với con trưởng thành: vỏ mỏng và có hình dạng gần giống với vỏ của họ Olividae khi có chóp nhọn, khẩu độ rộng và viền ngoài không có răng. Khi gần trưởng thành, các đặc điểm của con trưởng thành xuất hiện. Sau đó, vỏ không thể tăng kích thước mà dày lên do sự lắng đọng của vật liệu trên toàn bộ bề mặt, tạo ra các khía cạnh bóng và màu sắc đặc biệt của cá thể trưởng thành (Fao, 1998).
Đây là một họ ốc đẹp và được ví như các “viên đá quý của biển” bởi vẻ đẹp láng bóng tự nhiên, sự đa dạng về kích cỡ từ nhỏ đến lớn kèm thêm sự phong phú về màu sắc và hoa văn, vì vậy mà họ ốc này được rất nhiều người quam tâm sưu tập.
-Giá trị kinh tế: phần lớn các loài trong nhóm này là ăn được và được khai thác như một nguồn thực phẩm trong các quán ốc địa phương.
Một số khác có giá trị thẩm mĩ nên được khai thác lấy vỏ để làm quà lưu niệm (vỏ ốc, móc chìa khóa, hình con hạc…). Một số loài rất phổ biến là C.tigris được thấy bán hầu như ở những quầy hàng lưu niệm của vùng biển.
Hình ảnh: tham khảo từ Internet.